Phân loại Nhàn mào

Họ Nhàn (Sternidae) là tập hợp các loài chim có kích cỡ từ nhỏ đến vừa, có mối quan hệ gần gũi với họ Mòng biển Laridae, họ Xúc cá (Rynchopidae) và họ Chim cướp biển (Stercorariidae). Hình dáng của chúng trông giống mòng biển nhưng đặc trưng cơ thể thì nhẹ hơn, cánh nhọn dài (giúp bay nhanh), đuôi toè sâu và chân ngắn. Phần trên cơ thể của đa số loài có màu xám, phần dưới có màu trắng, mào màu đen có thể thu lại hoặc cụp lại vào mùa đông.[2]

 

 


T. bengalensis



T. maxima



 

T.bergii





T. sandvicensis



T. elegans



Mối quan hệ với chi Thalasseus[Ghi chú 1]

Vào năm 1823, nhà tự nhiên học Martin Lichtenstein là người đầu tiên gọi nhàn mào bằng danh pháp Sterna bergii, nhưng sau này người ta đã chuyển nhàn mào từ chi Sterna sang chi Thalasseus như hiện nay[Ghi chú 2] sau khi các nghiên cứu ADN ti thể xác nhận rằng ba kiểu hình hiện diện trên đầu của nhàn (không có mào màu đen, có mào màu đen và có mào màu đen với trán màu trắng) đã dẫn đến một nhánh chim riêng biệt.[3]

Trong chi Thalasseus, họ hàng gần nhất của nhàn mào là "nhàn mào nhỏ" (T. bengalensis) và "nhàn hoàng gia" (T. maximus).[3] Nghiên cứu ADN không bao hàm loài cực kỳ nguy cấp là "nhàn mào Trung Quốc" (T. bernsteini), nhưng do loài này từng được xem là cùng loài với nhàn mào (được xem là từ đồng nghĩa trong phân loài T. b. cristatus) nên T. bernsteini cũng được xem là có quan hệ rất mật thiết với nhàn mào.[4]

Tên chi Thalasseus bắt nguồn từ tiếng Hi Lạp là Thalassa (nghĩa là "biển") còn bergii là để tưởng nhớ Karl Heinrich Bergius (một nhà sinh vật học và dược sĩ người Phổ), người đã thu thập mẫu vật đầu tiên của loài nhàn này ở một địa điểm gần Cape Town, Nam Phi.[5]

Nhàn mào có khoảng năm phân loài, chủ yếu khác nhau về màu sắc của phần trên cơ thể và màu sắc của mỏ. Người ta còn đề xuất một số lượng tương tự các phân loài khác nhưng số phân loài này không được coi là hợp lệ.[6] Dưới đây là danh sách năm phân loài:

Phân loàiPhạm vi sinh sảnĐặc điểm riêng cóƯớc tính số lượng
T. b. bergii[7]
(Lichtenstein, 1823)
Bờ biển Cộng hòa Nam PhiNamibiaPhần trên màu xám đậm, hơn lớn hơn thalassina, có ít màu trắng trên đầu nhất[8]20.000 cá thể (gồm 6.336 cặp sinh sản ở Nam Phi và tối đa là 1.682 cặp ở Namibia)[9]
T. b. enigma[7][Ghi chú 3]
(Clancey, 1979)
Đồng bằng Zambezi, Mozambique, phía nam là đến Durban, Nam PhiPhân loài có màu sắc nhợt nhạt nhất.[6]8.000–10.000 cá thể ở Madagascar và Mozambique[9]
T. b. cristata[8]
(Stephens, 1826)
Miền đông Ấn Độ Dương, Úc và tây Thái Bình DươngTương tự bergii, có đuôi, phao câu và lưng cùng màu với bergii; những cá thể ở Úc có màu sắc nhợt nhạt hơn.Hơn 500.000 cá thể ở Úc[6]
T. b. thalassina[8]
(Stresemann, 1914)
Miền tây Ấn Độ DươngKích cỡ nhỏ và màu sắc nhợt nhạt; những cá thể ở miền nam phạm vi sinh sản thì lớn hơn và màu sắc ít nhợt nhạt hơn.2.550–4.500 cá thể ở miền đông châu Phi và quần đảo Seychelles[9]
T. b. velox[8]
(Cretzschmar, 1827)
Biển Đỏ, vịnh Ba Tư, miền bắc Ấn Độ DươngLớn nhất, nặng nhất, màu sẫm nhất và có mỏ dài nhất33.000 cá thể ở Trung Đông (bao gồm 4.000 cặp ở Oman và 3.500 cặp trên các hòn đảo ngoài khơi Ả Rập Xê Út)[6]

Tài liệu tham khảo

WikiPedia: Nhàn mào http://www.int-res.com/articles/meps/127/m127p001.... http://www.itis.gov/servlet/SingleRpt/SingleRpt?se... http://id.loc.gov/authorities/subjects/sh85057021 http://www.ncbi.nlm.nih.gov/Taxonomy/Browser/wwwta... //www.ncbi.nlm.nih.gov/pmc/articles/PMC1617148 //www.ncbi.nlm.nih.gov/pubmed/15804415 //www.ncbi.nlm.nih.gov/pubmed/17148194 http://vncreatures.net/chitiet.php?page=1&loai=1&I... http://vncreatures.net/chitiet.php?page=1&loai=1&I... http://bird.org.nz/nzrbn.htm